(Dân trí) - Kinh tế Mỹ như một con tàu lớn, khó chuyển hướng. Tuy nhiên, các quyết định của người đứng đầu cũng có thể gây ra những tác động lớn. Vậy kinh tế Biden hay kinh tế Trump sẽ tốt hơn cho Mỹ?
Tổng thống Mỹ Joe Biden, ứng cử viên đảng Dân chủ và ông Donald Trump, ứng cử viên đảng Cộng hòa, vừa có những cuộc tranh luận đầu tiên trên truyền hình. Các chuyên gia cho rằng một trong những chủ đề trọng tâm là thành tích kinh tế của cả hai.
Trên mặt trận kinh tế, cả hai đều từng chia sẻ về những thành tựu riêng của mình. Tuy nhiên, chính sách kinh tế của mỗi người đều có những điểm mạnh và điểm yếu khác nhau khi được "đặt lên bàn cân".
Trong khi ông Donald Trump hứa hẹn giảm thuế, từ đó tăng đầu tư doanh nghiệp thì ông Biden muốn hướng chi tiêu công vào cơ sở hạ tầng và các ngành chiến lược.
Mặc dù quan điểm đối lập nhau nhưng nhiệm kỳ của cả 2 cũng có nhiều điểm chung. Đó là thâm hụt ngân sách Mỹ vẫn lớn, tỷ lệ thất nghiệp thấp kỷ lục, tăng thuế nhập khẩu với Trung Quốc, thị trường chứng khoán liên tiếp lập đỉnh, hàng Trung Quốc bị tăng thuế nhập khẩu...
Quy mô kinh tế
GDP là thước đo tổng quát nhất về sức khỏe của một nền kinh tế. Trong 3 năm đầu nhiệm kỳ của Donald Trump, trước khi đại dịch xuất hiện, tăng trưởng trung bình hàng năm của Mỹ vào khoảng 2,7%.
Còn với ông Biden, không tính năm đầu tiên vẫn chịu tác động của Covid-19, tốc độ tăng trưởng của Mỹ cũng chỉ chậm hơn một chút, ở 2,3%.
Kinh tế Mỹ dưới thời ông Biden chứng kiến sự bùng nổ tiêu dùng trong và sau đại dịch. Tuy nhiên, kinh tế Mỹ trong nhiệm kỳ của Trump ghi nhận đóng góp lớn hơn từ đầu tư của doanh nghiệp mà nguyên nhân có thể tới từ việc mạnh tay giảm thuế cho nhóm này.
Tăng trưởng GDP Mỹ trong nhiệm kỳ của ông Trump và ông Biden (Ảnh: Reuters).
Đầu năm nay, ông Joe Biden đã công bố các kế hoạch thuế quan cho chiến dịch tranh cử 2024. Họ chủ yếu tập trung vào việc đảm bảo các tập đoàn lớn và người giàu. Kế hoạch này sẽ tăng thuế doanh nghiệp từ 21% lên 28% và mức thuế doanh nghiệp tối thiểu từ 15% lên 21%.
Ngoài ra, ông muốn yêu cầu các tỷ phú, top 1% giàu nhất hoặc những người có tài sản từ 100 triệu USD trở lên, phải đóng thuế ít nhất 25% thu nhập của họ hàng năm.
Điều này khác với kế hoạch thuế của Trump, với Đạo luật Cắt giảm thuế và Việc làm năm 2017 của ông đã thiết lập mức thuế thu nhập doanh nghiệp giảm từ 35% xuống 21% và ông Trump sẽ duy trì tỷ lệ đó, theo Bloomberg.
Trong khi ông Trump vẫn chưa công bố kế hoạch thuế chi tiết, nhiều điều khoản trong luật thuế năm 2017 của ông sẽ hết hạn vào năm 2025.
Lạm phát kỷ lục
Trong nhiệm kỳ của ông Trump, lạm phát tại Mỹ ổn định ở mức dưới 3%. Tuy nhiên, phản ứng của chính phủ Mỹ đối với đại dịch Covid-19 vào năm 2020 và tác động của xung đột Nga - Ukraine năm 2022 đã khiến lạm phát tăng mạnh.
Bên cạnh đó, trong thời gian đại dịch, Quốc hội Mỹ cũng đã thông qua đề xuất chi hàng nghìn tỷ USD cho các hộ gia đình, giúp họ thoải mái mua sắm trong và sau đại dịch. Điều này càng kéo lạm phát Mỹ lên cao.
Đáng chú ý, tháng 6/2022, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Mỹ tăng 9,1% so với cùng kỳ năm trước đó, cao nhất kể từ thập niên 80. Giá thực phẩm, xăng, ô tô, vé máy bay đều lên cao khiến các gia đình thu nhập thấp gặp khó khăn.
Lạm phát Mỹ trong nhiệm kỳ của ông Trump và ông Biden (Ảnh: Reuters).
Điều này cũng buộc Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) vì thế nâng lãi suất 11 lần liên tiếp để kiểm soát lạm phát. Hiện tại, CPI nước này chỉ tăng quanh 3%, nhưng vẫn cao hơn mục tiêu 2% của Fed.
Ban đầu, Fed cho rằng lạm phát chỉ xuất hiện tạm thời nên đã bắt đầu tăng lãi suất vào tháng 3/2022 để hạ nhiệt nền kinh tế. Nhưng sau hơn 2 năm, lạm phát vẫn ở mức cao hơn nhiều so với dự đoán của giới chuyên gia.
Các nhà kinh tế học đồng ý rằng phản ứng của Mỹ trong đại dịch đã giúp nước này tránh suy thoái. Tuy nhiên, chính sách này lại gây ra lạm phát, thách thức với chính quyền Joe Biden hiện tại.
Thị trường lao động
Cả nhiệm kỳ của ông Trump và ông Biden đều ghi nhận thị trường lao động ổn định. Tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ tăng vọt khi đại dịch mới xuất hiện, nhưng sau đó giảm dần về 3,4% trong nhiệm kỳ của Tổng thống Joe Biden và hiện tại đã duy trì dưới 4% trong hơn 2 năm.
Các nhà kinh tế học cho rằng Mỹ dường như luôn duy trì được nhu cầu lao động trong nhiều năm. Số người tham gia lực lượng lao động tại đây đang ngày càng tăng, sau khi sụt giảm thời kỳ đầu Covid-19.
Theo Barron's, dưới thời ông Donald Trump, tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ năm 2019 đã giảm xuống 3,5%, mức thấp nhất trong 50 năm. Tuy nhiên, ông Alan Blinder, giáo sư kinh tế tại Đại học Princeton, cho biết thành tích trên không phải là kết quả trực tiếp từ các chính sách của ông Trump mà đến từ xu hướng giảm nhiệt của tỷ lệ thất nghiệp đã bị tác động nhiều do đại dịch.
Tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ trong nhiệm kỳ của ông Trump và ông Biden (Ảnh: Reuters).
Điểm khác nhau cơ bản giữa nhiệm kỳ của ông Trump và Biden là số người nhập cư dưới thời ông Biden tăng lên, khiến tăng trưởng việc làm cũng cao hơn dự báo. Tăng trưởng lương dưới thời ông Biden cũng nhích lên, khi lao động thiếu hụt. Mức tăng mạnh nhất đến từ các công việc trả lương thấp nhất.
Năm ngoái, Tổng thống Joe Biden cũng đã điều chỉnh một quy tắc trong cách tính lương hiện hành cho công nhân xây dựng, với những thay đổi mang lại cho họ mức lương cao hơn và nhiều biện pháp bảo vệ tại nơi làm việc.
Thị trường chứng khoán
Dưới thời Donald Trump, chứng khoán Mỹ khởi sắc, chỉ số S&P 500 tăng khoảng 21,2% kể từ ngày đầu tiên ông nhậm chức cho đến cuối tháng 5/2019. Ông Trump luôn theo dõi chặt chẽ diễn biến của thị trường chứng khoán trong nhiệm kỳ của mình và thường dùng mạng xã hội để khoe thành tích. Ông từng cảnh báo nhiệm kỳ Tổng thống của ông Biden sẽ gây ra sự sụp đổ chưa từng thấy cho thị trường chứng khoán.
Đạo luật cắt giảm thuế năm 2017 của ông đã giúp tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động đầu tư kinh doanh. Trong khi đó, tỷ lệ thất nghiệp thấp cũng khuyến khích người tiêu dùng chi tiêu nhiều hơn.
Chỉ số S&P 500 biến động mạnh từ năm 2017 đến nay (Ảnh: Yahoo Finance).
Tuy nhiên, điều này đã không xảy ra. Sau thời gian chậm lại năm 2022 do Fed liên tục nâng lãi suất và thế giới ghi nhận nhiều biến động, giá cổ phiếu tăng trở lại khi giới đầu tư kỳ vọng Fed giảm lãi.
Dưới thời ông Biden, giá cổ phiếu lại đạt đỉnh vào đầu năm 2022 nhưng chỉ số S&P 500 đã bốc hơi 20% trong cả năm khi Fed thắt chặt tiền tệ để kiềm chế lạm phát. Năm ngoái, chỉ số S&P 500 tăng 24%, tập trung chủ yếu vào cuối năm. Năm nay, cả 3 chỉ số chủ chốt là DJIA, S&P 500 và Nasdaq Composite cũng liên tiếp lập đỉnh mới.
Thương mại và sản xuất
Điểm chung trong chính sách điều hành kinh tế của ông Trump và ông Biden là đều dùng thuế nhập khẩu để giảm thương mại của Mỹ với Trung Quốc. Điểm khác là trong khi ông Trump áp thuế với gần như tất cả hàng Trung Quốc thì ông Biden lại chọn lọc sản phẩm cụ thể như xe điện.
Mới đây, Mỹ nâng gấp 4 lần thuế với xe điện Trung Quốc, lên hơn 100%. Giới chức Mỹ giải thích việc này nhằm bù đắp các hoạt động và trợ cấp không công bằng của Trung Quốc và tạo sân chơi bình đẳng cho các nhà sản xuất ô tô và công nhân Mỹ.
Trong nhiệm kỳ tổng thống của mình, ông Trump đã áp đặt các mức thuế chưa từng có đối với hàng hóa nhập khẩu. Nếu trở lại nắm quyền, ông Trump muốn áp thêm thuế quan, từ mức thuế cố định 10% đối với mọi sản phẩm vào Mỹ cho đến mức thuế 100% đối với tất cả ô tô nhập khẩu.
Trong nhiệm kỳ nắm quyền, cả ông Trump và ông Biden đều tập trung vào chi phí và lực lượng lao động cho 2 ngành công nghiệp lớn của Mỹ là ngành sản xuất ô tô và thép.
Tổng thống Joe Biden và người tiền nhiệm Donald Trump (Ảnh: BI).
Nếu tái đắc cử, ông Joe Biden có kế hoạch tiếp tục đẩy mạnh duy trì hoạt động sản xuất ô tô ở địa phương và cạnh tranh với ngành công nghiệp ô tô đang phát triển của Trung Quốc.
Donald Trump cũng đã cam kết sẽ bảo vệ các nhà sản xuất ô tô Mỹ. Tại một cuộc vận động tranh cử vào tháng 3, ông nhắc tới kế hoạch tăng thuế đối với ô tô sản xuất ở nước ngoài và cho rằng sẽ có một cuộc chiến trong ngành ô tô trong nước nếu ông không tái đắc cử.
Chính quyền Biden cũng mong muốn làm cho xe điện có giá cả phải chăng hơn và đầu tư vào cơ sở hạ tầng sạc trên toàn quốc. Mặt khác, ông Trump lại cho rằng xe điện có thể mang lại lợi thế cho các nhà sản xuất Mexico và Trung Quốc và do đó, cắt giảm việc làm trong ngành ô tô ở Mỹ.
Khi còn đương chức, Donald Trump cũng nỗ lực bảo vệ ngành kim loại Mỹ, áp đặt thuế quan đối với thép và nhôm nhập khẩu. Đối với các quy định môi trường, ông Joe Biden đã nỗ lực thắt chặt các tiêu chuẩn về ô nhiễm phương tiện giao thông và mở rộng sử dụng năng lượng tái tạo.
Kinh doanh"Kinh tế Biden" hay "kinh tế Trump" sẽ tốt hơn cho Mỹ?
(Dân trí) - Kinh tế Mỹ như một con tàu lớn, khó chuyển hướng. Tuy nhiên, các quyết định của người đứng đầu cũng có thể gây ra những tác động lớn. Vậy kinh tế Biden hay kinh tế Trump sẽ tốt hơn cho Mỹ?
Tổng thống Mỹ Joe Biden, ứng cử viên đảng Dân chủ và ông Donald Trump, ứng cử viên đảng Cộng hòa, vừa có những cuộc tranh luận đầu tiên trên truyền hình. Các chuyên gia cho rằng một trong những chủ đề trọng tâm là thành tích kinh tế của cả hai.
Trên mặt trận kinh tế, cả hai đều từng chia sẻ về những thành tựu riêng của mình. Tuy nhiên, chính sách kinh tế của mỗi người đều có những điểm mạnh và điểm yếu khác nhau khi được "đặt lên bàn cân".
Trong khi ông Donald Trump hứa hẹn giảm thuế, từ đó tăng đầu tư doanh nghiệp thì ông Biden muốn hướng chi tiêu công vào cơ sở hạ tầng và các ngành chiến lược.
Mặc dù quan điểm đối lập nhau nhưng nhiệm kỳ của cả 2 cũng có nhiều điểm chung. Đó là thâm hụt ngân sách Mỹ vẫn lớn, tỷ lệ thất nghiệp thấp kỷ lục, tăng thuế nhập khẩu với Trung Quốc, thị trường chứng khoán liên tiếp lập đỉnh, hàng Trung Quốc bị tăng thuế nhập khẩu...
Quy mô kinh tế
GDP là thước đo tổng quát nhất về sức khỏe của một nền kinh tế. Trong 3 năm đầu nhiệm kỳ của Donald Trump, trước khi đại dịch xuất hiện, tăng trưởng trung bình hàng năm của Mỹ vào khoảng 2,7%.
Còn với ông Biden, không tính năm đầu tiên vẫn chịu tác động của Covid-19, tốc độ tăng trưởng của Mỹ cũng chỉ chậm hơn một chút, ở 2,3%.
Kinh tế Mỹ dưới thời ông Biden chứng kiến sự bùng nổ tiêu dùng trong và sau đại dịch. Tuy nhiên, kinh tế Mỹ trong nhiệm kỳ của Trump ghi nhận đóng góp lớn hơn từ đầu tư của doanh nghiệp mà nguyên nhân có thể tới từ việc mạnh tay giảm thuế cho nhóm này.
Tăng trưởng GDP Mỹ trong nhiệm kỳ của ông Trump và ông Biden (Ảnh: Reuters).
Đầu năm nay, ông Joe Biden đã công bố các kế hoạch thuế quan cho chiến dịch tranh cử 2024. Họ chủ yếu tập trung vào việc đảm bảo các tập đoàn lớn và người giàu. Kế hoạch này sẽ tăng thuế doanh nghiệp từ 21% lên 28% và mức thuế doanh nghiệp tối thiểu từ 15% lên 21%.
Ngoài ra, ông muốn yêu cầu các tỷ phú, top 1% giàu nhất hoặc những người có tài sản từ 100 triệu USD trở lên, phải đóng thuế ít nhất 25% thu nhập của họ hàng năm.
Điều này khác với kế hoạch thuế của Trump, với Đạo luật Cắt giảm thuế và Việc làm năm 2017 của ông đã thiết lập mức thuế thu nhập doanh nghiệp giảm từ 35% xuống 21% và ông Trump sẽ duy trì tỷ lệ đó, theo Bloomberg.
Trong khi ông Trump vẫn chưa công bố kế hoạch thuế chi tiết, nhiều điều khoản trong luật thuế năm 2017 của ông sẽ hết hạn vào năm 2025.
Lạm phát kỷ lục
Trong nhiệm kỳ của ông Trump, lạm phát tại Mỹ ổn định ở mức dưới 3%. Tuy nhiên, phản ứng của chính phủ Mỹ đối với đại dịch Covid-19 vào năm 2020 và tác động của xung đột Nga - Ukraine năm 2022 đã khiến lạm phát tăng mạnh.
Bên cạnh đó, trong thời gian đại dịch, Quốc hội Mỹ cũng đã thông qua đề xuất chi hàng nghìn tỷ USD cho các hộ gia đình, giúp họ thoải mái mua sắm trong và sau đại dịch. Điều này càng kéo lạm phát Mỹ lên cao.
Đáng chú ý, tháng 6/2022, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Mỹ tăng 9,1% so với cùng kỳ năm trước đó, cao nhất kể từ thập niên 80. Giá thực phẩm, xăng, ô tô, vé máy bay đều lên cao khiến các gia đình thu nhập thấp gặp khó khăn.
Lạm phát Mỹ trong nhiệm kỳ của ông Trump và ông Biden (Ảnh: Reuters).
Điều này cũng buộc Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) vì thế nâng lãi suất 11 lần liên tiếp để kiểm soát lạm phát. Hiện tại, CPI nước này chỉ tăng quanh 3%, nhưng vẫn cao hơn mục tiêu 2% của Fed.
Ban đầu, Fed cho rằng lạm phát chỉ xuất hiện tạm thời nên đã bắt đầu tăng lãi suất vào tháng 3/2022 để hạ nhiệt nền kinh tế. Nhưng sau hơn 2 năm, lạm phát vẫn ở mức cao hơn nhiều so với dự đoán của giới chuyên gia.
Các nhà kinh tế học đồng ý rằng phản ứng của Mỹ trong đại dịch đã giúp nước này tránh suy thoái. Tuy nhiên, chính sách này lại gây ra lạm phát, thách thức với chính quyền Joe Biden hiện tại.
Thị trường lao động
Cả nhiệm kỳ của ông Trump và ông Biden đều ghi nhận thị trường lao động ổn định. Tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ tăng vọt khi đại dịch mới xuất hiện, nhưng sau đó giảm dần về 3,4% trong nhiệm kỳ của Tổng thống Joe Biden và hiện tại đã duy trì dưới 4% trong hơn 2 năm.
Các nhà kinh tế học cho rằng Mỹ dường như luôn duy trì được nhu cầu lao động trong nhiều năm. Số người tham gia lực lượng lao động tại đây đang ngày càng tăng, sau khi sụt giảm thời kỳ đầu Covid-19.
Theo Barron's, dưới thời ông Donald Trump, tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ năm 2019 đã giảm xuống 3,5%, mức thấp nhất trong 50 năm. Tuy nhiên, ông Alan Blinder, giáo sư kinh tế tại Đại học Princeton, cho biết thành tích trên không phải là kết quả trực tiếp từ các chính sách của ông Trump mà đến từ xu hướng giảm nhiệt của tỷ lệ thất nghiệp đã bị tác động nhiều do đại dịch.
Tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ trong nhiệm kỳ của ông Trump và ông Biden (Ảnh: Reuters).
Điểm khác nhau cơ bản giữa nhiệm kỳ của ông Trump và Biden là số người nhập cư dưới thời ông Biden tăng lên, khiến tăng trưởng việc làm cũng cao hơn dự báo. Tăng trưởng lương dưới thời ông Biden cũng nhích lên, khi lao động thiếu hụt. Mức tăng mạnh nhất đến từ các công việc trả lương thấp nhất.
Năm ngoái, Tổng thống Joe Biden cũng đã điều chỉnh một quy tắc trong cách tính lương hiện hành cho công nhân xây dựng, với những thay đổi mang lại cho họ mức lương cao hơn và nhiều biện pháp bảo vệ tại nơi làm việc.
Thị trường chứng khoán
Dưới thời Donald Trump, chứng khoán Mỹ khởi sắc, chỉ số S&P 500 tăng khoảng 21,2% kể từ ngày đầu tiên ông nhậm chức cho đến cuối tháng 5/2019. Ông Trump luôn theo dõi chặt chẽ diễn biến của thị trường chứng khoán trong nhiệm kỳ của mình và thường dùng mạng xã hội để khoe thành tích. Ông từng cảnh báo nhiệm kỳ Tổng thống của ông Biden sẽ gây ra sự sụp đổ chưa từng thấy cho thị trường chứng khoán.
Đạo luật cắt giảm thuế năm 2017 của ông đã giúp tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động đầu tư kinh doanh. Trong khi đó, tỷ lệ thất nghiệp thấp cũng khuyến khích người tiêu dùng chi tiêu nhiều hơn.
Chỉ số S&P 500 biến động mạnh từ năm 2017 đến nay (Ảnh: Yahoo Finance).
Tuy nhiên, điều này đã không xảy ra. Sau thời gian chậm lại năm 2022 do Fed liên tục nâng lãi suất và thế giới ghi nhận nhiều biến động, giá cổ phiếu tăng trở lại khi giới đầu tư kỳ vọng Fed giảm lãi.
Dưới thời ông Biden, giá cổ phiếu lại đạt đỉnh vào đầu năm 2022 nhưng chỉ số S&P 500 đã bốc hơi 20% trong cả năm khi Fed thắt chặt tiền tệ để kiềm chế lạm phát. Năm ngoái, chỉ số S&P 500 tăng 24%, tập trung chủ yếu vào cuối năm. Năm nay, cả 3 chỉ số chủ chốt là DJIA, S&P 500 và Nasdaq Composite cũng liên tiếp lập đỉnh mới.
Thương mại và sản xuất
Điểm chung trong chính sách điều hành kinh tế của ông Trump và ông Biden là đều dùng thuế nhập khẩu để giảm thương mại của Mỹ với Trung Quốc. Điểm khác là trong khi ông Trump áp thuế với gần như tất cả hàng Trung Quốc thì ông Biden lại chọn lọc sản phẩm cụ thể như xe điện.
Mới đây, Mỹ nâng gấp 4 lần thuế với xe điện Trung Quốc, lên hơn 100%. Giới chức Mỹ giải thích việc này nhằm bù đắp các hoạt động và trợ cấp không công bằng của Trung Quốc và tạo sân chơi bình đẳng cho các nhà sản xuất ô tô và công nhân Mỹ.
Trong nhiệm kỳ tổng thống của mình, ông Trump đã áp đặt các mức thuế chưa từng có đối với hàng hóa nhập khẩu. Nếu trở lại nắm quyền, ông Trump muốn áp thêm thuế quan, từ mức thuế cố định 10% đối với mọi sản phẩm vào Mỹ cho đến mức thuế 100% đối với tất cả ô tô nhập khẩu.
Trong nhiệm kỳ nắm quyền, cả ông Trump và ông Biden đều tập trung vào chi phí và lực lượng lao động cho 2 ngành công nghiệp lớn của Mỹ là ngành sản xuất ô tô và thép.
Tổng thống Joe Biden và người tiền nhiệm Donald Trump (Ảnh: BI).
Nếu tái đắc cử, ông Joe Biden có kế hoạch tiếp tục đẩy mạnh duy trì hoạt động sản xuất ô tô ở địa phương và cạnh tranh với ngành công nghiệp ô tô đang phát triển của Trung Quốc.
Donald Trump cũng đã cam kết sẽ bảo vệ các nhà sản xuất ô tô Mỹ. Tại một cuộc vận động tranh cử vào tháng 3, ông nhắc tới kế hoạch tăng thuế đối với ô tô sản xuất ở nước ngoài và cho rằng sẽ có một cuộc chiến trong ngành ô tô trong nước nếu ông không tái đắc cử.
Chính quyền Biden cũng mong muốn làm cho xe điện có giá cả phải chăng hơn và đầu tư vào cơ sở hạ tầng sạc trên toàn quốc. Mặt khác, ông Trump lại cho rằng xe điện có thể mang lại lợi thế cho các nhà sản xuất Mexico và Trung Quốc và do đó, cắt giảm việc làm trong ngành ô tô ở Mỹ.
Khi còn đương chức, Donald Trump cũng nỗ lực bảo vệ ngành kim loại Mỹ, áp đặt thuế quan đối với thép và nhôm nhập khẩu. Đối với các quy định môi trường, ông Joe Biden đã nỗ lực thắt chặt các tiêu chuẩn về ô nhiễm phương tiện giao thông và mở rộng sử dụng năng lượng tái tạo.
Đăng thảo luận